Q.D Leavis - Thị trường sách
"Các thư viện thương mại cung cấp tiểu thuyết cho thành viên của họ đồng nghĩa với việc đáp ứng thị hiếu chung rộng nhất, vì sẽ có lợi hơn khi mua (với mức chiết khấu lớn)"
Chúc mừng năm mới Ất Tỵ!
Tôi từng có thời gian thử viết văn tiếng Anh, không tệ lắm, nhưng chớm hè năm Giáp Thìn vừa rồi, tôi quyết định ngừng lại: tôi nghĩ tại sao không đọc văn chương Anh? Câu hỏi đơn giản nhưng không kém phần long trọng. Đấy là một ngôn ngữ trong tầm với (tuy không dễ), lại là một truyền thống văn chương rất có ảnh hưởng, liền mạch mà sở đọc cũng có ít nhiều, hơn nữa rất gần với công việc xuất bản. Vào mùa thu, một số đơn vị xuất bản và bạn bè làm dịch giả, nghiên cứu đã sẵn lòng dùi cho nhiều quyển sách hay đến tay, nên tôi quyết định bỏ thời gian đọc. Vả lại, một nền văn chương hoàn toàn khác lại có thể là điểm tựa tốt để nhìn lại Việt Nam. Tôi cũng không đọc để có hiểu biết hơn, hay làm nghiên cứu… Chỉ vì cảm thấy cần thiết, vả lại lại chót bắt đầu quá phê với nhiều tác phẩm ấn tượng. Nếu bạn là người đọc sách chắc hẳn từng có cảm nhận về một cái duyên tâm linh rất hay hiển của sách: đấy là khi đọc một cái gì đó, thì hôm sau sẽ dễ gặp lại ở một chỗ khác. Lần này, tôi gặp nghề in ấn trong cả hai cuốn Clayhanger của Arnold Bennett và 路傍の石 của Yuzo Yamamoto, hai người viết gần như cùng thời, đều là sau một sự biến mất một bên của Victoria, một bên của Minh Trị, cả hai cuốn tiểu thuyết tôi đều rất thích.
(Dĩ nhiên đọc văn chương Anh không phải là để xem cách viết. Sự đọc và sự viết đúng là can hệ đến nhau nhưng trên bình diện khác, phức tạp hơn rất nhiều)
Sau E.M Forster, tôi cũng muốn đọc về phê bình văn học, nhất là đoạn sau thời Ewardian. Đây là chỗ mà tôi cảm thấy khá giống Việt Nam ở nhiều thời kỳ. Tôi tìm đến vài tờ báo, vài nhân vật, trong đó có F.R Leavis. Xem Leavis viết về Conrad
Vợ của F.R Leavis là bà Q.D. Leavis sinh năm 1906 - người ông thường đề tặng trong các quyển sách. Cùng với Virginia Woolf, đây là hai người phụ nữ Anh đọc và bình luận văn chương một cách rất sành sỏi trong quãng nửa đầu thế kỷ XX (chắc là có nhiều hơn nhưng tạm chỉ biết đến vậy). Tuy nhiên con đường của hai người trái ngược nhau, thậm chí, Q.D. Leavis phản đối cách đọc kiểu common reader của Woolf. Tác phẩm “The fiction and The reading Public” là một cái nhìn tổng quát của Leavis vào chỗ mà bà thấy là hiện tượng của thời đại, đó là việc xuất bản ngày một dễ hơn, sách nhiều hơn, và độc giả đại chúng đang thay đổi. Dưới đây là chương một. Ban đầu, có ba đối tượng chính làm nên điều đó, một là tạp chí, hai là điện ảnh, ba là thư viện công cộng. Một cái gì đó đang mất đi, thay thế bằng một nền văn học giải trí mới - trước đây tất nhiên từng có nhưng không phải bày ra nhiều như thế. Giai đoạn này ở Anh có thể giống Việt Nam bây giờ, cũng đã lặn lội đến một cảnh tương tự, giống hơn cả giai đoạn cùng thời (nền xuất bản trước năm 1950 ở Việt Nam).
Về Tác giả
Q. D. Leavis (Queenie Dorothy Leavis, 1906–1981) là một nhà phê bình văn học Anh có ảnh hưởng, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết Anh và văn hóa đọc. Bà là vợ của F. R. Leavis và cũng là một biên tập viên chính của Scrutiny, tạp chí phê bình do F. R. Leavis chủ trương, và cùng chồng định hình hướng tiếp cận khắt khe đối với giá trị văn học.
Sinh ra tại Cambridge, Q. D. Leavis theo học tại Girton College, Đại học Cambridge, và xuất bản công trình Fiction and the Reading Public (1932), bà hướng cái nhìn vào văn học đại chúng, đồng thời phê phán sự thương mại hóa văn học và sự suy giảm tiêu chuẩn đọc của công chúng.
Q.D LEAVIS - THỊ TRƯỜNG SÁCH
(Mưa Chiều chuyển ngữ theo bản tiếng Anh NXB Chato & Windus, London 1939)
Ở nước Anh thế kỷ XX, không chỉ ai cũng biết đọc, mà có thể khẳng định chắc chắn rằng ai cũng thực sự đọc. Mặc dù Báo cáo về Thư viện Công cộng (1927) cho biết chỉ có 11% dân số sử dụng sách từ thư viện công cộng, nhưng số lượng báo Chủ nhật được bán ra sẽ giúp điều chỉnh bất kỳ ấn tượng sai lệch nào mà những con số này có thể gây ra.
Vào ngày nghỉ, ngay cả những hộ gia đình nghèo nhất cũng mua một tờ báo, dù đó có thể là một loại báo khác so với loại mà giới có học ưa chuộng. Nếu đi dạo vào sáng Chủ nhật qua bất kỳ khu dân cư nào, ta sẽ thấy người chủ gia đình đang đọc báo. Ở mỗi cửa sổ phía trước, ngay cả tại những khu nghèo nhất, News of the World được đọc trên bậc cửa hoặc ngay trên giường. Trong khi đó, việc đọc Observer hoặc Sunday Times hàng tuần—những tờ báo dành phần lớn nội dung của mình cho các bài điểm sách và quảng cáo của các nhà xuất bản—trong nhiều trường hợp là khoảng thời gian duy nhất mà ngay cả một doanh nhân có thiện chí hay một giáo viên cũng có thể dành ra cho việc học hỏi về văn học.
Advertiser’s ABC năm 1929 ghi nhận tổng số lượng phát hành ròng của tám tờ báo Chủ nhật lớn nhất lên đến gần mười triệu bản, và vẫn còn nhiều tờ báo khác có mức độ phổ biến tương đương nhưng không có số liệu thống kê cụ thể. Nếu ta nhớ rằng một tờ báo thường được giả định là có trung bình năm người đọc, và rằng tổng dân số Vương quốc Anh là bốn mươi ba triệu người, thì cũng có lý khi nói văn hoá đọc đã đi vào đời sống.
À nhưng câu hỏi thú vị hơn—Họ đọc gì?—không thể được trả lời nếu trước tiên không chỉ ra rằng họ tìm thấy và tiếp cận tài liệu đọc ở đâu và bằng cách nào.
Đặc điểm nổi bật của tình huống này là mặc dù, như đã chứng minh ở trên, toàn bộ dân số trên độ tuổi đi học đã hình thành thói quen đọc sách, nhưng các cửa hàng tồn tại chỉ để bán sách lại hiếm hoi bên ngoài các thị trấn đại học như Oxford, Cambridge, Edinburgh, một số khu vực nhất định của London và một vài thành phố lớn khác. Việc mua sách nghiêm túc không tăng tỷ lệ thuận với mức độ biết chữ; phần lớn công chúng không mua nhiều sách, mà toàn mượn với thuê —trong trường hợp đầu tiên là từ các thư viện thành phố hoặc thư viện được tài trợ (vốn không mấy thỏa đáng), còn trong trường hợp thứ hai là từ các thư viện tư nhân theo hình thức đăng ký thành viên.
Cuộc điều tra năm 1924 về kho sách và số lượng sách được mượn tại các thư viện đô thị cho thấy rằng, trong khi các thư viện này trung bình có 63% sách phi hư cấu so với 37% sách hư cấu, thì chỉ 22% sách phi hư cấu được mượn, trong khi con số này đối với sách hư cấu lên đến 78%. Trong khi đó, các thư viện cấp quận, với 38% sách phi hư cấu so với 62% sách hư cấu, cũng chỉ có 25% sách phi hư cấu được mượn.
Điều này, xét đến thực tế rằng 11% thiểu số mượn sách từ thư viện công cộng có lẽ là nhóm có tinh thần cầu tiến hơn trong tầng lớp độc giả nghèo, đã đủ để chứng minh một cách thuyết phục sự thống trị của tiểu thuyết và sự thờ ơ đối với việc thực đọc—hai đặc điểm nổi bật của thời đại này.
Các kệ sách hư cấu trong thư viện công cộng thường chứa những tác phẩm kinh điển và những tiểu thuyết phổ biến lâu bền trong quá khứ, các tác phẩm tiêu biểu của tất cả các tiểu thuyết gia đương thời được yêu thích nhất, và (hiếm hơn) những tiểu thuyết mang tính "văn học" của thời đại. Tuy nhiên, ở đấy hiếm khi có những tác phẩm mà nhóm phê bình thiểu số coi là có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực tiểu thuyết—như các tác phẩm của D. H. Lawrence, Virginia Woolf, James Joyce, T. F. Powys, và E. M. Forster.
Ngoài thực tế là ba trong số năm tác giả này bị phần lớn công chúng coi là tục —một thực tế tự thân nó cũng đáng suy ngẫm—bốn trong số năm tác giả này chẳng nghĩa lý gì với đời, chỉ trừ cho những độc giả biết đọc.
Một thủ thư từng thử nghiệm đưa các tác phẩm "hay" vào thư viện của mình sẽ báo cáo rằng không ai mượn South Wind hay The Garden Party, cơ mà nếu ông ấy đặt thêm hai trăm bản truyện trinh thám của Edgar Wallace lên kệ, thì tất cả sẽ bị mượn sạch trong cùng một ngày.
Gắn liền với thư viện công cộng là phòng đọc, chỗ ấy thể nào chẳng có một số người đang chăm chú xem qua các nhật báo, tạp chí và đặc san định kỳ được cấp.
Thế thì, thư viện công cộng ấy là nguồn cung cấp sách chính cho lớp độc giả nghèo. Đối với những người có thể chi một khoản phí thường niên, Câu lạc bộ Sách Thời Đại (Times Book Club) và Thư viện Mudie (Mudie’s Library) hoạt động ở London (và gửi các thùng sách đến khách hàng ở các vùng nông thôn). Các quầy sách của W. H. Smith cung cấp thư viện lưu động tiện lợi tại các ga tàu và điểm trung chuyển, trong khi ở mỗi thị trấn có quy mô đáng kể, chuỗi cửa hàng dược phẩm Boots cũng vận hành các thư viện tương tự với mức phí rất thấp.
Tại các thư viện này, với một khoản phí tối thiểu (có thể chỉ cần nửa guinea một năm), thành viên có thể mượn các tiểu thuyết, sách lịch sử, tiểu sử, du ký, tiểu luận, v.v., tùy theo những đầu sách mà thư viện lựa chọn cho họ. Nếu trả phí cao hơn, họ có thể đặt sách theo yêu cầu—ngoại trừ trường hợp ba công ty trong số này áp đặt kiểm duyệt đạo đức nghiêm ngặt.
Không có số liệu thống kê chính thức, và không có thông tin nào được các thư viện này cung cấp khi có yêu cầu. Tuy nhiên, sau nhiều giờ quan sát tại các chi nhánh khác nhau vào các thời điểm khác nhau trong ngày, tác giả đi đến kết luận rằng tỷ lệ thành viên có đăng ký "bảo đảm" hoặc "theo yêu cầu" không nhiều; nghĩa là, nhìn chung, những người đủ điều kiện và có điều kiện kinh tế để đăng ký thư viện lưu động thường chấp nhận để thư viện quyết định việc đọc của họ. Và trong trường hợp này, "đọc sách" đồng nghĩa với đọc tiểu thuyết.
Không quá khi nói rằng, đối với hầu hết mọi người, "một cuốn sách" có nghĩa là một cuốn tiểu thuyết. Điều này trở nên rõ ràng khi quan sát quá trình chọn sách, nơi nhân viên thư viện thường được hỏi theo công thức quen thuộc như:
“Có cuốn khác giống cuốn này thì cho mượn phát nhé."
“Có sách gì hay bạn có thể giới thiệu cho tôi không?"
Nhân viên nhìn lướt qua cuốn tiểu thuyết mà khách hàng cầm trên tay, rồi đưa ra một cuốn tiểu thuyết khác, và khách hàng chấp nhận mà không thắc mắc gì. Đôi khi nhân viên hỏi:
“Hi cuốn này bạn đọc chưa?"
Và câu trả lời thường là:
“Tôi cũng chả nhớ, thôi ngài cứ cầm đi."
Khi có ý kiến phê bình, nó gần như luôn phản ánh sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về giá trị văn học. Ví dụ, một phàn nàn phổ biến là:
"Conrad đọc không vào đầu, mấy cái truyện đi biển tôi thấy chán lắm”
Hoặc ngược lại:
"Tôi thích Conrad vì tôi rất thích đề tài biển cả."
Ở những khu dân cư khá giả hơn, các thành viên thư viện mang theo danh sách tiểu thuyết mà họ đã chép lại từ quảng cáo sách trên báo hoặc các bài điểm sách.
Không thể phủ nhận rằng có những người đăng ký thư viện lưu động để bổ sung và định hướng việc mua sách của họ. Tuy nhiên, bất kỳ ai từng thường xuyên lui tới các chi nhánh của các câu lạc bộ sách ở London và các tỉnh trong vài năm qua đều không khỏi phán xét rằng công chúng mượn sách đã hình thành thói quen đọc, nhưng bằng cách nào đó lại không phát triển bất kỳ tư duy phản biện nào đối với việc đọc của họ.
Điều đáng chú ý là:
Tỷ lệ tiểu thuyết so với sách phi hư cấu áp đảo một cách đáng kể, trong các sách được mượng.
Phụ nữ thay sách nhiều hơn nam giới (tức là họ quyết định nội dung đọc của cả gia đình).
Nhiều thành viên đến thư viện hàng ngày để đổi tiểu thuyết mới.
Thêm vào đó, theo một thủ thư tự nguyện cung cấp thông tin, nhiều độc giả mượn hai hoặc ba cuốn tiểu thuyết của Edgar Wallace mỗi tuần, và những cuốn sách duy nhất khác mà họ mượn là của "Sapper" hoặc các tiểu thuyết trinh thám khác. Dễ nghĩ rằng thói quen đọc sách giờ đây thường giống như một dạng nghiện hơn là một hoạt động trí tuệ thực sự.
Ở các con phố ngoại ô và thậm chí trong những cửa hàng nhỏ ở làng quê, người ta thường thấy các kệ tiểu thuyết cũ, nhàu nát, được cho thuê với giá 2 hoặc 3 xu một cuốn. Điều đáng ngạc nhiên là khách hàng có nghèo mấy thì nghèo vẫn có thể đủ tiền để đổi sách nhiều lần trong tuần, thậm chí là hàng ngày—nhưng làm mạnh như thế chính là thói quen đọc của họ.
Một bài báo trên Publishers' Circular có tiêu đề "Thúc đẩy một Thư viện thuê sách" cho thấy loại tiểu thuyết được ưa chuộng tại các thư viện như vậy. Có vẻ như bài viết này nói về một thư viện lưu động nhỏ ở ngoại ô, nơi tính phí 3 xu một tuần. Quảng cáo thường xuyên của thư viện này như sau:
SÁCH!
Tuyển tập đặc sắc của:
Sapper
Edgar Wallace
Sax Rohmer
William Le Queux
Zane Grey
Margaret Pedler
E. M. Dell
Margaret Peterson
May Christie
Kathlyn Rhodes
Olive Wadsley
Những tác giả này được quảng bá thường xuyên, đôi khi có bổ sung thêm Rider Haggard, Ruby M. Ayres, và Oppenheim. Quảng cáo này được báo cáo là rất thành công. (Có thể thấy rằng tiêu đề "SÁCH!" ở đây thực chất chỉ có nghĩa là "TIỂU THUYẾT!")
Trong trường hợp của những "quán nhậu văn chương" giá hai xu ấy, lựa chọn sách thực chất được quyết định bởi nguồn cung, tức là do chủ tiệm cố gắng cung cấp những đầu sách có sức hút. Nhưng ngay cả trong những thư viện đăng ký lớn, độc giả cũng hoàn toàn thụ động.
Một bài viết chia sẻ "trải nghiệm thực tế" trên Manchester Evening News kể lại rằng khi tác giả đến Mudie’s để đổi một cuốn tiểu thuyết cho vợ, nhân viên thư viện đưa ra một tiểu thuyết trinh thám của J. S. Fletcher và một câu chuyện phiêu lưu lãng mạn của W. J. Locke, giải thích rằng:
“Phụ nữ vốn đã bận rộn với việc nhà suốt cả ngày rồi, chị ấy sẽ chả buồn đọc những câu chuyện về những vấn đề hôn nhân hay những bà vợ bị hiểu lầm đâu — đã biết quá đủ về những thứ đó rồi. Chị ấy cũng không đủ kiên nhẫn để đọc văn phương ngữ sau một ngày làm việc, và tiểu thuyết lịch sử thì không đủ sống động. Điều chị ấy thích là một câu chuyện có thể xảy ra, nhưng nằm ngoài trải nghiệm bản thân. Rồi xem tôi nói có đúng không."
Tác giả bài viết kết luận: "Và quả thực, cô ấy thích thật."
Ảnh hưởng của thực trạng này đối với thị hiếu sẽ được phân tích sâu hơn trong nghiên cứu này.
Còn tác động đối với thị trường sách đã được Stanley Unwin, một nhà xuất bản uy tín, mô tả trong tác phẩm quan trọng của ông mang tên Thực tiễn Ngành Xuất bản:
"Các thư viện lưu động là một trong những khách hàng lớn nhất mà các đại diện thương mại ngành sách tiếp cận. Đây là một chủ đề rất nhạy cảm. Một số nhà xuất bản bảo vệ hệ thống thư viện lưu động; một số khác lại muốn xóa sổ chúng hoàn toàn.
Xét về mặt chúng cung cấp sách một cách nhanh chóng và hiệu quả đúng theo nhu cầu của độc giả, thật khó để phản đối sự tồn tại của chúng. Nhưng đáng tiếc, điều này chỉ áp dụng đối với những gì được gọi là 'đăng ký bảo đảm'. Và mặc dù tôi không có số liệu thống kê trong tay, tôi tin rằng số lượng độc giả có đăng ký bảo đảm chỉ là một thiểu số rất nhỏ.
Không có gì đảm bảo rằng những độc giả còn lại sẽ nhận được đúng những cuốn sách mà họ yêu cầu.
Hệ thống hiện tại có xu hướng thúc đẩy việc lưu hành những cuốn sách tầm thường và kém chất lượng, đồng thời cản trở sự phổ biến của những tác phẩm thực sự có giá trị, đặc biệt là của các nhà văn chưa có danh tiếng.
Có một thư viện lưu động thậm chí còn tự hào rằng họ có thể ép buộc độc giả mượn những gì họ cung cấp—mà trong trường hợp này có nghĩa là những cuốn sách mà thư viện có thể mua với giá rẻ nhất.
Giải pháp không nhất thiết là xóa bỏ các thư viện lưu động (vì thói quen sử dụng chúng đã ăn sâu vào xã hội Anh), mà là giáo dục công chúng để họ biết rằng họ phải nhận được những cuốn sách họ yêu cầu, chứ không phải những thứ thay thế.
Tôi tin chắc rằng bất kỳ hình thức đăng ký nào khác ngoài 'đăng ký bảo đảm' đều có hại."
Không đi sâu vào câu hỏi ông Unwin thực sự muốn nói gì khi dùng thuật ngữ "sách kém chất lượng" và "sách thực sự hay", ít nhất ta có thể chỉ ra rằng việc các thư viện thương mại cung cấp tiểu thuyết cho thành viên của họ đồng nghĩa với việc đáp ứng thị hiếu chung rộng nhất, vì sẽ có lợi hơn khi mua (với mức chiết khấu lớn) ba trăm bản của một cuốn tiểu thuyết mà ai cũng sẵn lòng đọc, hơn là mua một số ít của một trăm cuốn sách khác nhau nhưng không thể lưu hành hết trong số khách hàng của họ.
Nếu hỏi bất kỳ người bán sách nào tại sao mọi người không mua sách, họ chắc chắn sẽ trả lời rằng các thư viện lưu động là nguyên nhân chính:
"Hãy nhìn vào nước Pháp, nơi cách duy nhất để đọc một cuốn sách là phải mua nó—và chẳng phải doanh số bán sách ở Pháp đã tăng gấp ba hoặc bốn lần kể từ sau chiến tranh đó sao?"
Nhưng mặc dù dữ kiện này là đúng, lời giải thích trên vẫn chưa đầy đủ. Công chúng Anh không sẵn sàng trả tiền cho sách như họ sẵn sàng chi tiền cho quần áo và vé xem phim, nhưng họ vẫn mua các ấn phẩm báo chí—tạp chí (với giá một shilling hoặc hơn mỗi tháng) và vô số tờ báo cho cả gia đình.
Người Pháp mua sách vì nước Pháp có một công chúng có học, còn người Anh lại mua báo và tạp chí định kỳ.
Rải rác khắp mọi khu dân cư, ngay cả những khu nghèo nhất, là các tiệm bán báo—nơi có chức năng cung cấp tài liệu đọc cho cả khu vực. Chính điều này giải thích cho sự vắng mặt của các hiệu sách.
Một cuộc phân tích kho hàng của một tiệm báo điển hình đã cho ra danh sách đại diện sau đây:
Danh mục tài liệu đọc tại một tiệm bán báo điển hình:
1. Ấn phẩm định kỳ
(Dấu (A) sau một tựa đề cho biết đó là ấn phẩm Mỹ.)
(a) Nhiều loại báo hàng ngày và hàng tuần.
(b) Một số tuần báo văn hóa ở các cấp độ khác nhau, bao gồm:
New Statesman and Nation (chỉ có khi đặt hàng trước)
John o’ London’s (chứa các tin đồn văn học và bài viết về sách cùng tác giả nổi tiếng)
Ở giữa hai loại trên có các tờ báo như Everyman hoặc Week-End Review (giới thiệu cho độc giả những cuốn sách mà họ sẽ thích), và The Listener (do BBC xuất bản).
(c) Tạp chí hài hước hàng tuần, như:
Punch (dựa trên định kiến của tầng lớp trung lưu)
The Humorist (hướng đến tầng lớp thấp hơn)
(d) Bảy hoặc tám tạp chí tin tức minh họa sang trọng (giá 1 shilling, có phong cách gần với Punch), chẳng hạn như:
The Tatler
The Sphere
The Sketch
Sporting and Dramatic
The Bystander
(e) Một số ít tạp chí văn học (được liệt kê bên dưới).
(f) Hơn hai mươi tạp chí truyện hư cấu dày dặn, giá 6 xu hoặc 1 shilling mỗi tháng, chẳng hạn như:
The Strand
Happy
Hush Magazine
Nash’s
Wide World (“Tạp chí dành cho Đàn ông”)
True Story
World Stories of Thrills and Adventure
Một số tạp chí dành riêng cho truyện trinh thám, trong đó ít nhất có Black Mask là của Mỹ.
(g) Tạp chí phụ nữ, tức là những tạp chí chứa truyện hư cấu như ở mục (f), nhưng được thiết kế riêng cho đối tượng nữ giới, với nhiều bài viết về trang trí nhà cửa, nội trợ, thời trang, nấu ăn và làm đẹp, cùng với khối lượng lớn quảng cáo.
12 tạp chí thuộc nhóm này được bán thường xuyên, tiêu biểu là:
Modern Woman (“Chuyên về phong cách cá nhân”)
Good Housekeeping (A)
Ideal Home
Delineator (A)
Woman and Beauty (tạp chí phụ nữ phổ biến nhất, đa phần là ấn phẩm Mỹ)
Những tạp chí này thường tự hào quảng bá rằng chúng cung cấp "tiểu thuyết hạng nhất".
(h) Chín tạp chí điện ảnh (không phải tạp chí kỹ thuật, mà chứa truyện hư cấu, bài viết về điện ảnh và quảng bá phim, nhằm tạo ra các "fan điện ảnh").
Bảy trong số chín tạp chí này là của Mỹ, bao gồm:
Motion Picture Classics (A) (“Tạp chí có cá tính”)
Screen Romances (A)
Screen Play Secrets (A)
Greenland (A) (“Tạp chí điện ảnh thông minh nhất nước Mỹ”)
The Motion Picture (A)
The Picturegoer
→ Khi được hỏi về mức tiêu thụ của các tạp chí này, một người bán báo trả lời: “Bán chạy vô cùng!”
→ Có thể cũng nên kể đến College Humour (A), một tạp chí Mỹ chuyên đăng bài viết, truyện ngắn và truyện cười về đời sống sinh viên.
(i) Báo khổ nhỏ giá 2 xu (xuất bản hàng tuần, có hình thức như tạp chí, chứa những truyện hư cấu sơ sài và dễ bán), chẳng hạn như:
London Novels (“Anh ấy có phải chồng cô ta không?”)
Love Stories (“Chỉ là một con búp bê sơn phết”)
Peg’s Paper
Eve’s Own
Ít nhất một tá ấn phẩm khác thuộc loại này.
2. Sách tiểu thuyết bìa mềm giá 6 xu, 9 xu và 1 shilling
(Của các tác giả nổi tiếng như Oppenheim, Edgar Wallace, Baroness Orczy.)
3. Thư viện Sixpenny của Benn (gồm các tập sách giáo dục đơn giản)
4. Tuyển tập Sixpenny Augustan Poets của Benn (tuyển thơ giá rẻ)
5. Một đến hai kệ sách Nelson's Classics (giá 1 shilling 6 xu) và một số tiểu thuyết đại chúng giá 2 shilling
6. Một số sách dành cho trẻ em, từ điển và sách nấu ăn
7. Một số tiểu thuyết giá 6 xu được xuất bản bởi Readers' Library và Novel Library.
Tỷ lệ giữa các loại ấn phẩm có thể thay đổi đôi chút—loại 5 (sách kinh điển và tiểu thuyết đại chúng đắt tiền hơn) có thể không có mặt, hoặc trong những khu vực giàu có, nó có thể mở rộng để bao gồm những tiểu thuyết đại chúng đắt tiền hơn, chẳng hạn như:
Các tập truyện Forsyte,
The Good Companions,
The Week-End Book,
Các tác phẩm mới nhất của P. G. Wodehouse và Ethel M. Dell.
Tương tự, các loại 3 và 4 (tập sách giáo dục nhẹ và tuyển tập thơ giá rẻ) có thể không xuất hiện.
Tuy nhiên, những thực tế quan trọng vẫn rất rõ:
Mọi người không mua sách, nhưng họ mua tạp chí.
Doanh số bán tạp chí ở mọi cấp độ và mức giá là rất lớn và ổn định,
Không có đủ nhu cầu đối với báo chí nghiêm túc để khiến các tiệm báo trữ sẵn chúng, vì vậy các báo này chỉ có khi có người đặt hàng trước.
Những phát hiện này cũng trùng khớp với những gì ông Oliver Madox Hueffer quan sát được trong cuộc điều tra gần đây về một khu nghèo ở Nam London, và nhìn chung cũng đúng với thị trường sách trên toàn quốc:
"Văn học chủ yếu chỉ xuất hiện trong các cửa hàng dược phẩm hoặc tiệm vải vóc, và phần lớn là tiểu thuyết cùng các tạp chí giá rẻ. Những thư viện công cộng miễn phí ít ỏi thì cố gắng, dù không thực sự xuất sắc, để phục vụ những độc giả nghiêm túc hơn. Nhưng do thiếu kinh phí, họ không thể bổ sung những tác phẩm mới với số lượng đáng kể, và nội dung của họ quá tản mát để có giá trị thực sự đối với giới học giả."
Hơn nữa, những thói quen đọc nhất định đã hình thành và ổn định, dựa trên loại nội dung mà các tạp chí cung cấp và cách thức trình bày của chúng. Những vấn đề này sẽ được phân tích chi tiết trong Phần II, nhưng một dấu hiệu rõ ràng của xu hướng chung có thể được thấy qua sự phổ biến của các tạp chí phụ nữ và tạp chí điện ảnh, đặc biệt là những tạp chí xuất bản tại Mỹ, với phong cách ngôn ngữ trước đây xa lạ với báo chí Anh.
Một điểm khác cũng cần lưu ý là các loại báo chí và tạp chí liệt kê ở trên ít nhất có lượng quảng cáo nhiều ngang với nội dung chữ viết của chúng. Khi xét đến chi phí in ấn, minh họa, trả thù lao cho nhà văn và nhân viên biên tập, ta có thể thấy rằng giá bán mà nhà bán lẻ trả cho mỗi tờ báo hoặc tạp chí thấp hơn đáng kể so với chi phí sản xuất thực tế.
Điều này có nghĩa là các tạp chí gần như hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thu từ quảng cáo. Do đó, chính sách của chúng ưu tiên lợi ích của các nhà quảng cáo hơn tất cả, và vì quảng cáo chỉ có giá trị ở những nơi có lượng phát hành cao nhất, nên mọi thứ đều bị hy sinh để đạt được số lượng phát hành lớn.
Ảnh hưởng của nguyên tắc này sẽ được phân tích rõ ràng hơn trong Phần II quyển này.
Ngoài Times Book Club và Mudie’s, phục vụ tầng lớp trung lưu thượng lưu, và Boots, phục vụ tầng lớp trung lưu thấp hơn, thì các tiệm báo chính là đại diện cho hiệu sách đối với đa số người dân. Tuy nhiên, ta cũng không thể bỏ qua các cửa hàng sách của tầng lớp lao động. Tại những nơi có chuỗi cửa hàng bán lẻ lớn, thường có chi nhánh của Woolworth—một công ty Mỹ chuyên bán hàng giá rẻ. Ở đây, gần như mọi thứ thiết yếu cho cuộc sống có thể được mua với giá 3 xu hoặc 6 xu, bao gồm cả sách.
Tất cả sách tại đây đều là tiểu thuyết và được chia làm ba loại:
Quầy tiểu thuyết bìa mềm giá 2 xu, 3 xu và 6 xu, bao gồm các tác phẩm của Gene Stratton Porter và những tác giả tương đương của Anh.
Quầy “Tạp chí Mỹ đặc sắc”, nơi các tạp chí Mỹ được bán lại với giá 3 xu. Do doanh số ổn định, nên hàng hóa ở đây liên tục được thay đổi.
Dòng sách giá 6 xu của Readers’ Library và các ấn bản giá rẻ tương tự, lần đầu tiên được giới thiệu đến công chúng thông qua hệ thống cửa hàng này.
Lời tựa của mỗi tập sách trong bộ này giải thích mục đích của dòng sách như sau:
"READERS’ LIBRARY được tạo ra nhằm mang những tiểu thuyết nổi tiếng nhất thế giới đến với hàng triệu người, bằng cách phát hành với mức giá thấp nhất có thể trên mỗi bản in, ở kích thước tiện lợi, trên giấy chất lượng cao, với bìa đẹp và bền. Bộ sách này bao gồm một loạt những câu chuyện—cả có bản quyền và không có bản quyền—mà ai cũng từng nghe nói đến và mong muốn được đọc."
"Trước đây chưa từng có tiền lệ, ngay cả trong những thời kỳ mà chi phí sản xuất sách thấp nhất. Để có thể thực hiện được điều này ở thời điểm hiện tại, mỗi tập sách cần phải đạt doanh số hàng trăm nghìn bản, và theo thời gian, nhiều tập trong bộ sách này sẽ tìm đường đến gần như mọi gia đình, dù khiêm tốn đến đâu ở toàn xứ Anh Quốc."
"Nhà xuất bản hoàn toàn tin tưởng rằng mục tiêu này sẽ đạt được, bởi vì chỉ trong chưa đầy năm năm kể từ khi bộ sách này có mặt trên thị trường, hơn năm mươi triệu bản đã được bán ra chỉ riêng tại Anh Quốc."
"Những tiểu thuyết trong READERS’ LIBRARY sẽ được tuyển chọn bởi một trong những học giả danh tiếng nhất đương thời, và mỗi tập sách sẽ kèm theo một ghi chú ngắn về tiểu sử và thư mục của tác giả cùng các tác phẩm của ông ấy."
Ban đầu, biên tập viên lựa chọn các tác phẩm kinh điển đại chúng (Uncle Tom’s Cabin, The Last Days of Pompeii, Pilgrim’s Progress, Westward Ho!, v.v.) và viết phần giới thiệu phê bình cho từng cuốn sách.
Tuy nhiên, một nguyên tắc mới nhanh chóng xuất hiện: bất cứ khi nào một siêu phẩm điện ảnh được ra mắt (Love—bản chuyển thể của Anna Karenina, Ben-Hur, His Lady—chuyển thể của Manon Lescaut, The Man Who Laughs—chuyển thể của L’Homme Qui Rit), thì sách dựa trên bộ phim đó cũng sẽ được xuất bản (và được quảng cáo trên bìa sách với nhãn “Book of the Film” kèm theo ảnh chụp từ phim bên trong).
Những cuốn sách này bán rất chạy, đến mức giai đoạn tiếp theo là sản xuất hẳn một cuốn sách lấy tên từ bộ phim hoặc vở kịch, ngay cả khi bản gốc không tồn tại, với nội dung được viết lại bởi một tác giả chuyên viết thuê. Hiện nay, các tiểu thuyết giật gân, truyện ngắn đại chúng và “sách của phim” đã hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường, thể hiện sự thương mại hóa công khai của một dòng sách vốn từng được các chính khách và giám mục hoan nghênh nồng nhiệt khi ra mắt vào năm 1924.
Nhà phê bình danh tiếng—người phụ trách phần giới thiệu ban đầu—dần rơi từ vai trò nhà phê bình sang vai trò người bào chữa, sau đó trở thành người ủng hộ thị hiếu đại chúng, và cuối cùng chỉ đơn thuần cung cấp một số thông tin cơ bản về tác giả và cốt truyện.
Giai đoạn gần đây nhất là sự ra mắt của ấn bản phim ảnh (Readers’ Library Film Edition), với phần Lời tựa sau đây:
“Readers’ Library Film Edition được ra đời để đáp ứng một nhu cầu thực tế của thời đại. Sự quan tâm đến một bộ phim không chấm dứt chỉ sau khi xem nó. Hai loại hình nghệ thuật—hình ảnh và chữ viết—tác động qua lại lẫn nhau.
... Nói một cách đơn giản, người xem phim cũng muốn đọc sách của phim, và độc giả cũng muốn xem phim của sách.
Để đáp ứng nhu cầu không thể phủ nhận này đối với văn học gắn liền với điện ảnh, sẽ không đủ nếu chỉ sản xuất những cuốn sách kém chất lượng... Việc xuất bản sẽ được đồng bộ với thời điểm ra mắt của mỗi bộ phim quan trọng mới.”
Như vậy, nhà phê bình danh tiếng đã bị thay thế bởi nhà sản xuất phim Mỹ—một sự thay đổi trở nên dễ dàng hơn nhờ sự ra đời của phim có tiếng (talkie), với lời thoại có sẵn để chuyển thể thành sách.
Phần giới thiệu nay đã không còn hướng về văn học, mà tập trung hoàn toàn vào các ngôi sao điện ảnh:
“The Rogue Song, dựa trên vở nhạc kịch lãng mạn nổi tiếng Gipsy Love, là một trong những thành tựu rực rỡ nhất của màn ảnh có tiếng.
Câu chuyện đã trở thành một tiểu thuyết hấp dẫn, và phong cách của ông Val Lewton đã nắm bắt trọn vẹn giai điệu và chất lãng mạn của bộ phim, với ngôi sao chính là Lawrence Tibbett—giọng nam trung vĩ đại nhất nước Mỹ.
.. Chuyện tình đầy cảm xúc của một chàng lãng tử người Digan và một nàng công chúa xinh đẹp đã tạo nên một trong những tiểu thuyết điện ảnh tuyệt vời nhất mà chúng tôi từng xuất bản.”
Có vẻ như việc gắn sách với điện ảnh đang mang lại lợi nhuận lớn, vì Novel Library (For Fiction Lovers) cũng đã hoàn toàn chuyển sang sách chuyển thể từ phim nói. Ban đầu, Novel Library xuất phát từ mô hình của Readers’ Library—tương tự như Leisure Library Ltd. và Detective Story Club Ltd.. Nhưng nay, họ đã ngừng xuất bản Wells và Galsworthy cho đại chúng, và thay vào đó tập trung sản xuất “book of talkie” [Tiểu thuyết dựa trên kịch bản phim nói]. (Lưu ý: cả ba dòng sách này hiện được bán cùng với Readers’ Library.)
Bộ phim Welcome Danger được quảng cáo với khán giả bằng ngôn ngữ của phim nói:
"Biết Harold Lloyd chứ?
Chắc chắn rồi. Đã xem anh ấy trong College Days và Safety Last chưa? Chắc rồi.
Thế thì bạn chưa thực sự cười hết cỡ đâu, cho đến khi xem Welcome Danger—bộ phim hài hước nhất mà anh ấy từng làm. Và bạn sẽ cười đến chết khi đọc cuốn sách, bởi vì trong đó, bạn sẽ cảm thấy như đang ở ngay bên cạnh Harold vậy!"
Sự kiểm soát ngày càng lớn của Tư bản Lớn—mà dựa vào các bằng chứng trên, ta có thể hợp lý khi coi ngành công nghiệp điện ảnh là một phần trong đó—đã dẫn đến sự suy giảm ham muốn đọc bất kỳ thứ gì có thể được xếp vào danh mục "văn học", ngay cả với cách phân loại rộng rãi nhất.
Thay vào đó, một loại hình thay thế đã xuất hiện, mà có lẽ được mô tả rõ ràng nhất qua bìa tiêu đề của một ấn phẩm điển hình:
"The Girl from China"
Tiểu thuyết hóa bởi Karen Brown
Chuyển thể từ Drifting của John Cotton
Một bộ phim của Universal, với sự tham gia của MARY NOLAN.
Một số đầu sách thuộc Readers' Library hiện được bán tại hầu hết các quầy báo, nhưng doanh số chính của những thư viện này vẫn đến từ các khu chợ bách hóa. Tại đây, trong khi khách hàng di chuyển từ quầy này sang quầy khác để mua đồ sành sứ giá rẻ, chuỗi hạt, chụp đèn, kẹo bơ cứng, đồ chơi, xà phòng, hoa hoét rau củ quả, dưới nền nhạc từ những đĩa hát 6 xu vang lên trong không gian với "Headin' for Hollywood" và "Love Never Dies", họ bị cuốn vào việc mua sách một cách vô thức.
Nếu là một thị trấn nông thôn, khu chợ bách hóa chật kín vào ngày họp chợ, khi người dân vùng quê kéo vào trung tâm thị trấn mỗi tuần một lần để mua sắm, khiến cho sách Woolworth trở thành nguồn cung cấp tài liệu đọc chính cho cả vùng. Nếu ở thành phố, các bà nội trợ trong khu vực đều đặn ghé chợ vào các ngày thứ Bảy, dù luôn có một dòng người ổn định đi dọc các quầy hàng và xem xét sản phẩm suốt cả tuần.
Và như thế, những tiểu thuyết bìa giấy của Nat Gould, Charles Garvice, Joseph Hocking, P. C. Wren, Sabatini, và Phillips Oppenheim, cùng với các tạp chí Mỹ như:
Ranch Romances
Far-West Stories
Love Romances
The Popular Magazine
Marriage Stories
Detective Classics
Black Mask
Gangster Stories ("Tạp chí về những tay xã hội đen và gái giang hồ")
…cùng với các sách giá 6 xu như:
Harem Love ("Tình yêu trong hậu cung" của Joan Conquest, tác giả Desert Love)
Officer ("Một tiểu thuyết tội phạm ngầm của Hulbert Footner")
The King of Kings ("Câu chuyện về siêu phẩm điện ảnh về Cơ Đốc giáo")
…đều theo chân khách hàng về nhà trong giỏ mua sắm.
(Hết phần 1)
- Mưa Chiều chuyển ngữ-