Italo Calvino - Tại sao đọc cổ điển?
Nói cách khác, đọc một cuốn sách vĩ đại lần đầu tiên khi đã trưởng thành là một niềm vui phi thường, khác biệt (dù không thể nói là lớn hơn hay nhỏ hơn) so với niềm vui khi đọc nó ở tuổi trẻ.
Tìm vui thú trong đọc, mỗi người có một kiểu.
Đối với tôi, có một ẩn dụ trung tâm đầy sức mạnh đã chi phối, cần phải thoát được đầu tiên: “văn chương là món ăn tinh thần”. Tôi sẽ tự nhủ trước hết là tinh thần thì không có răng, nên đâu có ăn được cái gì. Ồ: một quyển sách là một sản phẩm, dùng để hấp thụ, 2 quyển sách là 2 sản phẩm, nhưng 3 quyển sách trở lên thì bắt đầu khác, nếu có cơ may tìm ra được mối tương giao giữa nó, và của mình với nó, thì tạo ra một cái gọi là tinh thần.
Câu khác gần gũi với ý này, nhưng dễ thông cảm hơn là “tìm thấy chính mình trong việc đọc”, hoặc “tìm được sự an ủi trong văn chương”. Song vào một thời điểm, tôi chợt thử con đường khác: cố gắng không tìm chính mình, cũng cố gắng để từ chối an ủi (và từ đó, từ đó, thoát hẳn cái kiểu món ăn tinh thần). Vâng, có những cách khác để thiết lập một mối tương giao với cuốn sách. Từng bước từng bước, và bỗng tôi nhìn ra được mấy điều có lẽ sẽ rất cần thiết cho sự viết của mình, và ngoài ra, tìm thấy một hạnh phúc.
Việc coi sách (ở đây chắc chỉ nói văn học) là sản phẩm thì không sai: đã bỏ tiền thì có quyền, ta cũng có quyền nói là nhà văn này ái chà lắm điểm yếu quá, điểm yếu của Jane Austen là tả quá nhiều không cần thiết, chẳng hạn. Ta cứ tổng kết sự đọc từng quý từng năm như chỉ tiêu. Sách thay đổi còn ta thì không.
Đọc Rudyard Kipling, trong các truyện ngắn về xứ Ấn - nổi bật có The Man Who Would Be King, dường như ông đã nói cho tôi biết một cái ý rất kì lạ: cái sơ khai của chủ nghĩa thực dân, chính nằm ở tình yêu, chứ không nằm ở tham lam, trước hết, người Anh cũng tìm thấy chính mình, tìm được sự an ủi ở thuộc địa Ấn, trong những vấn đề thân phận của mình, họ nhìn Ấn độ, họ nghĩ đây chính là tâm hồn của mình rồi: theo cách như thế, chủ nghĩa thực dân bắt đầu. Tôi giật mình nhìn lại một cuốn sách về Đông Dương, của một tác giả tên là Leon Werth - bạn của St. Exupery.
Nhưng, vấn đề là: theo cách tương tự, ta thực dân cuốn sách, thực dân một tác phẩm nghệ thuật, rất có thể đấy. Ý này chắc là không đùa được, cảm ơn ngài Kipling.
Diễn-Đạt Writing Program đã mở đăng ký, cho tháng 2 (ngay sau Tết Âm Lịch).
Tham khảo:
Italo Calvino có một bài viết tên là “Tại sao đọc cổ điển?”, có một ý, là văn học cổ điển đã góp vào trong cõi ký ức chung của chúng ta những phần mà chúng ta đã biết, nhưng đã quá xa không thể hiểu được: ta đang sống trong tiên tri của ngày trước và ở đâu đó, có một thế giới đã mất. Ngài Calvino cũng nói, nhiều khi chỉ đơn giản là đọc cổ điển thì tốt hơn là không đọc mà chỉ biết qua loa.
Tại sao đọc cổ điển? - Italo Calvino
Hãy bắt đầu với một vài định nghĩa đề xuất.
Cổ điển là những cuốn sách mà ta thường nghe người ta nói: "Tôi đang đọc lại…" chứ hiếm khi nghe "Tôi đang đọc….”
Điều này ít nhất đúng với những người tự nhận mình là "đọc rất nhiều sách." Nhưng nó không đúng với những người trẻ tuổi, khi họ lần đầu tiên khám phá thế giới, và cổ điển chỉ là một phần trong thế giới đó.
Tiền tố "lại" trước động từ "đọc" có thể là một chút giả tạo từ những người ngại thừa nhận rằng họ chưa đọc một cuốn sách nổi tiếng. Để trấn an họ, ta chỉ cần lưu ý rằng, dù một người có vốn đọc nền tảng rộng lớn đến đâu, vẫn còn rất nhiều tác phẩm cơ bản mà họ chưa đọc.
Hãy giơ tay lên nếu bạn đã đọc toàn bộ tác phẩm của Herodotus và toàn bộ của Thucydides! Còn Saint-Simon thì sao? Và cả Hồng y de Retz? Nhưng ngay cả các chuỗi tiểu thuyết vĩ đại của thế kỷ 19 cũng thường được nhắc đến nhiều hơn là được đọc. Ở Pháp, người ta bắt đầu đọc Balzac từ khi còn đi học, và dựa vào số lượng bản in lưu hành, ta có thể giả định rằng họ vẫn tiếp tục đọc ông ngay cả sau đó. Nhưng nếu một cuộc thăm dò Gallup được thực hiện ở Ý, e rằng Balzac sẽ đứng gần cuối bảng.
Ở Ý, những người hâm mộ Dickens là một nhóm nhỏ ưu tú; ngay khi các thành viên trong nhóm gặp nhau, họ bắt đầu rôm rả trò chuyện về các nhân vật và tình tiết, như thể đang thảo luận về những người và sự việc mà họ quen biết ngoài đời.
Nhiều năm trước, khi giảng dạy ở Mỹ, Michel Butor đã cảm thấy mệt mỏi với những câu hỏi về Emile Zola – một tác giả mà ông chưa bao giờ đọc – nên ông quyết định đọc toàn bộ chuỗi tác phẩm Rougon-Macquart. Ông phát hiện ra rằng tác phẩm hoàn toàn khác so với những gì ông từng nghĩ: một cây phả hệ đầy tính huyền thoại và vũ trụ học, mà ông sau đó đã mô tả trong một bài luận tuyệt vời.
Nói cách khác, đọc một cuốn sách vĩ đại lần đầu tiên khi đã trưởng thành là một niềm vui phi thường, khác biệt (dù không thể nói là lớn hơn hay nhỏ hơn) so với niềm vui khi đọc nó ở tuổi trẻ. Tuổi trẻ mang đến cho việc đọc, cũng như mọi trải nghiệm khác, một hương vị đặc biệt và một cảm giác quan trọng đặc biệt, trong khi khi trưởng thành, ta trân trọng (hoặc nên trân trọng) nhiều chi tiết, tầng nghĩa và ý nghĩa hơn. Do đó, chúng ta có thể thử định nghĩa tiếp theo:
Chúng ta dùng từ "kinh điển" để chỉ những cuốn sách được trân quý bởi những người đã đọc và yêu thích chúng; nhưng chúng cũng được trân quý không kém bởi những người may mắn được đọc chúng lần đầu tiên trong điều kiện tốt nhất để tận hưởng.
Thực tế, việc đọc sách khi còn trẻ có thể khá kém hiệu quả, bởi sự thiếu kiên nhẫn, xao nhãng, thiếu kinh nghiệm với "hướng dẫn sử dụng" của tác phẩm, và cả sự non nớt trong chính cuộc sống. Những cuốn sách được đọc khi đó có thể (và thường đồng thời) vừa mang tính định hình, vì chúng định dạng các trải nghiệm trong tương lai, cung cấp các mô hình, các thước đo so sánh, sơ đồ phân loại, bảng giá trị, và hình mẫu của cái đẹp—tất cả những thứ này vẫn tiếp tục vận hành ngay cả khi cuốn sách được đọc thời trẻ gần như hoặc hoàn toàn bị lãng quên. Nếu ta đọc lại cuốn sách đó khi trưởng thành, rất có khả năng ta sẽ tái phát hiện những yếu tố bất biến này, vốn giờ đây đã trở thành một phần của cơ chế nội tại bên trong ta, nhưng nguồn gốc của chúng thì ta đã quên từ lâu.
Một tác phẩm văn học có thể khiến ta quên nó như một thực thể độc lập, nhưng nó để lại hạt giống trong ta. Vì vậy, định nghĩa mà ta có thể đưa ra như sau:
3) Cổ điển là những cuốn sách tạo ra ảnh hưởng đặc biệt, cả khi chúng không thể bị xóa bỏ khỏi tâm trí, và khi chúng ẩn mình trong các ngóc ngách của ký ức, ngụy trang thành tiềm thức tập thể hoặc cá nhân.
Do đó, cần có một thời điểm trong đời trưởng thành dành riêng để đọc lại những cuốn sách quan trọng nhất của thời thanh xuân. Ngay cả khi những cuốn sách vẫn không thay đổi (dù chúng có thay đổi, dưới ánh sáng của những góc nhìn lịch sử mới mẻ), chắc chắn rằng chúng ta đã thay đổi, và cuộc gặp gỡ sẽ là một trải nghiệm hoàn toàn mới.
Vì vậy, việc ta dùng động từ "đọc" hay "đọc lại" không mấy quan trọng. Thực tế, ta có thể nói:
4) Mỗi lần đọc lại một tác phẩm cổ điển đều là một chuyến hành trình khám phá, cũng như lần đọc đầu tiên.
5) Mỗi lần đọc một tác phẩm cổ điển thực chất là một lần đọc lại.
Định nghĩa 4 có thể được xem là một hệ quả của định nghĩa tiếp theo:
6) Một tác phẩm cổ điển là một cuốn sách chưa bao giờ nói hết những điều nó muốn nói.
Trong khi đó, định nghĩa 5 dựa trên một công thức cụ thể hơn, như sau:
7) Cổ điển là những cuốn sách đến với chúng ta, mang trên mình dấu vết của những lần đọc trước đó, và mang theo dấu ấn mà chính chúng đã để lại trong các nền văn hóa mà chúng đã đi qua (hoặc nói đơn giản hơn, trong ngôn ngữ và tập tục).
Tất cả những điều này đều đúng đối với cả các tác phẩm kinh điển cổ điển và hiện đại.
Nếu tôi đọc Odyssey, tôi đang đọc văn bản của Homer, nhưng tôi không thể quên tất cả những ý nghĩa mà các cuộc phiêu lưu của Ulysses đã mang lại qua các thế kỷ, và tôi không khỏi tự hỏi liệu những ý nghĩa đó đã tiềm ẩn trong văn bản gốc, hay chúng chỉ là những sự tích tụ, bóp méo, hoặc mở rộng theo thời gian. Khi đọc Kafka, tôi không thể tránh khỏi việc đồng tình hay phản đối tính hợp lệ của tính từ "Kafkaesque," một từ thường xuyên được dùng một cách bừa bãi đến mức cứ mỗi mười lăm phút lại nghe thấy nó. Nếu tôi đọc Fathers and Sons của Turgenev hoặc The Possessed của Dostoevsky, tôi không thể không nghĩ đến cách những nhân vật này đã tiếp tục được tái sinh cho đến tận ngày nay.
Việc đọc một tác phẩm cổ điển nên mang lại cho ta một vài bất ngờ so với những gì ta từng nghĩ về nó. Vì lý do này, tôi không thể khuyến nghị đủ mạnh mẽ rằng nên đọc trực tiếp chính văn bản, và cố gắng gạt sang một bên các tiểu sử phê bình, bình luận, và diễn giải càng nhiều càng tốt.
Trường học và các trường đại học nên giúp ta hiểu rằng không một cuốn sách nào viết về một cuốn sách có thể nói nhiều hơn chính cuốn sách đó, nhưng thực tế chúng thường cố hết sức khiến ta nghĩ ngược lại. Có một sự đảo lộn giá trị rất phổ biến, trong đó phần giới thiệu, công cụ phê bình, và thư mục được sử dụng như một màn khói để che giấu điều mà văn bản muốn nói, và thực sự chỉ có thể nói nếu được để tự nói, mà không qua trung gian nào tự nhận biết nhiều hơn văn bản.
Chúng ta có thể kết luận rằng:
8) Một tác phẩm cổ điển không nhất thiết dạy chúng ta điều gì đó mà ta chưa biết. Trong một tác phẩm cổ điển, đôi khi ta khám phá ra điều gì đó mà ta luôn biết (hoặc nghĩ rằng mình biết), nhưng không biết rằng chính tác giả này đã nói điều đó đầu tiên, hoặc ít nhất đã gắn kết với điều đó theo cách đặc biệt. Đây cũng là một sự bất ngờ mang lại nhiều niềm vui, giống như ta luôn cảm nhận được từ việc khám phá nguồn gốc, mối quan hệ, hay sự tương đồng. Từ điều này, ta có thể rút ra định nghĩa:
9) Tác phẩm cổ điển là những cuốn sách mà càng đọc, ta càng thấy mới mẻ, tươi mới, và bất ngờ, dù trước đó ta nghĩ rằng mình đã biết rõ chúng chỉ qua lời đồn.
Điều này tất nhiên chỉ đến khi một tác phẩm cổ điển thực sự phát huy tác dụng—nghĩa là khi nó thiết lập được một tương giao với cá nhân người đọc. Nếu không có tia lửa đó, thật đáng tiếc; nhưng chúng ta không đọc các tác phẩm cổ điển vì nghĩa vụ hay lòng kính trọng, mà chỉ vì tình yêu với chúng. Ngoại trừ ở trường học.
Trường học nên giúp bạn, dù tốt hay chưa tốt, tiếp cận một số lượng nhất định các tác phẩm cổ điển, để từ đó bạn có thể lựa chọn các tác phẩm cổ điển cho riêng mình hoặc tham chiếu với chúng. Trường học buộc phải cung cấp các công cụ cần thiết để giúp bạn đưa ra lựa chọn, nhưng những lựa chọn thực sự quan trọng là những gì diễn ra bên ngoài và sau khi rời khỏi trường.
Chỉ khi đọc mà không có định kiến, bạn mới có thể tình cờ gặp được cuốn sách trở thành “cuốn sách của bạn.” Tôi biết một nhà sử học nghệ thuật xuất sắc, một người có kiến thức cực kỳ uyên bác, nhưng trong tất cả các cuốn sách mà ông biết, ông lại dành tình yêu đặc biệt cho Pickwick Papers. Trong mọi cơ hội, ông đều trích dẫn một câu nói từ cuốn sách của Dickens và kết nối mọi sự kiện trong cuộc đời với một tình tiết trong cuốn sách ấy. Dần dần, chính ông, triết học, và vũ trụ đều mang hình dáng của Pickwick Papers nhờ một quá trình đồng nhất hoàn toàn.
Từ đó, chúng ta đạt đến một khái niệm cao cả và đầy thách thức về tác phẩm cổ điển:
10) Chúng ta gọi một cuốn sách là "cổ điển" khi nó mang trong mình tầm vóc tương đương với vũ trụ, giống như các bùa chú cổ đại. Với định nghĩa này, ta tiến gần đến ý tưởng về “cuốn sách toàn diện,” như Mallarmé đã hình dung.
Nhưng một tác phẩm cổ điển cũng có thể thiết lập mối quan hệ mạnh mẽ theo hướng đối lập hoặc tương phản. Mọi điều Jean-Jacques Rousseau nghĩ và làm đều rất gần gũi với trái tim tôi, nhưng đồng thời chúng lại khiến tôi tràn đầy mong muốn phản biện, chỉ trích, tranh luận với ông. Đây là một vấn đề về sự phản cảm cá nhân ở mức độ tính khí, vì thế tôi lẽ ra không có lý do nào để đọc ông; tuy nhiên, tôi không thể không liệt kê ông vào danh sách các tác giả của tôi. Vì vậy, tôi sẽ nói rằng: ...
11) Tác giả cổ điển của bạn là người mà bạn không thể cảm thấy thờ ơ, người giúp bạn định hình bản thân qua mối quan hệ với ông ấy, ngay cả khi đó là một mối quan hệ tranh cãi.
Tôi nghĩ tôi không cần phải biện minh cho việc sử dụng từ "cổ điển" mà không phân biệt tuổi tác, phong cách, hay quyền uy. Điều làm nên sự khác biệt của tác phẩm cổ điển, trong lập luận mà tôi đang đưa ra, có lẽ chỉ là hiệu ứng vang vọng áp dụng cho cả một tác phẩm cổ điển lẫn một tác phẩm hiện đại đã đạt được vị trí của nó trong dòng chảy văn hóa. Chúng ta có thể nói rằng:
12) Một tác phẩm cổ điển là một cuốn sách xuất hiện trước các tác phẩm cổ điển khác; nhưng bất kỳ ai đã đọc những tác phẩm khác trước, và sau đó đọc cuốn này, sẽ ngay lập tức nhận ra vị trí của nó trong cây phả hệ.
Đến đây, tôi không thể trì hoãn thêm việc đối mặt với vấn đề quan trọng: làm thế nào để liên hệ giữa việc đọc các tác phẩm cổ điển và việc đọc tất cả các loại sách khác không phải là cổ điển. Vấn đề này liên quan đến những câu hỏi như: Tại sao phải đọc các tác phẩm cổ điển thay vì tập trung vào những cuốn sách giúp chúng ta hiểu sâu hơn về thời đại của mình? Hoặc, làm thế nào để tìm ra thời gian và sự bình tâm để đọc các tác phẩm cổ điển, trong khi chúng ta đang bị lấn át bởi cơn lũ của các sự kiện thời sự?
Chúng ta, tất nhiên, có thể tưởng tượng ra một linh hồn may mắn, dành toàn bộ thời gian đọc sách của mình để đọc Lucretius, Lucian, Montaigne, Erasmus, Quevedo, Marlowe, Bàn về phương pháp, Wilhelm Meister, Coleridge, Ruskin, Proust, và Valéry, với đôi chút thám hiểm về phía Murasaki hoặc các Saga Iceland. Và tất cả những điều này mà không phải viết bài đánh giá về các ấn phẩm mới nhất, không phải tham gia các cuộc thi lấy ghế giảng dạy đại học, hay viết các bài báo cho các tạp chí với hạn nộp sát nút.
Để duy trì một chế độ đọc thuần khiết như vậy, linh hồn may mắn này sẽ phải kiêng đọc báo và không bao giờ bị cám dỗ bởi những tiểu thuyết mới nhất hay các nghiên cứu xã hội học. Nhưng chúng ta cần xem liệu sự nghiêm ngặt đó có hợp lý hay có ích không. Tin tức mới nhất có thể tầm thường hoặc gây chán nản, nhưng nó vẫn là một điểm đứng để ta nhìn lại quá khứ và hướng về tương lai.
Để có thể đọc được các tác phẩm cổ điển, bạn phải biết "điểm xuất phát" của mình khi đọc chúng; nếu không, cả cuốn sách và người đọc sẽ lạc vào một đám mây vô thời gian. Đây chính là lý do vì sao hiệu quả lớn nhất từ việc đọc các tác phẩm cổ điển sẽ đạt được ở người biết cách xen kẽ chúng với liều lượng phù hợp của thời sự. Và điều này không nhất thiết đòi hỏi một trạng thái bình tâm nội tại tuyệt đối. Nó cũng có thể là kết quả của sự thiếu kiên nhẫn, của trạng thái bồn chồn, bất mãn trong tâm trí.
Có lẽ điều lý tưởng là lắng nghe các sự kiện hiện tại giống như ta nghe tiếng ồn bên ngoài cửa sổ thông báo về tắc đường hay thay đổi thời tiết, trong khi lắng nghe giọng nói của các tác phẩm cổ điển vang lên rõ ràng và mạch lạc trong phòng. Nhưng với hầu hết mọi người, việc cảm nhận sự hiện diện của các tác phẩm cổ điển như một tiếng vang xa xôi bên ngoài căn phòng đang ngập tràn sự vụn vặt của thời khắc hiện tại, giống như tiếng tivi phát quá to, cũng đã là điều đáng quý. Vì vậy, hãy thêm vào:
13) Một tác phẩm cổ điển là thứ có xu hướng biến những mối bận tâm của thời khắc hiện tại thành tiếng ồn nền, nhưng đồng thời, tiếng ồn nền đó lại là thứ mà chúng ta không thể thiếu.
14) Một tác phẩm cổ điển là thứ vẫn tồn tại như một tiếng ồn nền ngay cả khi những mối bận tâm tức thời không phù hợp nhất đang chi phối tình thế.
Vẫn còn đó thực tế rằng việc đọc các tác phẩm cổ điển dường như mâu thuẫn với nhịp sống của chúng ta, vốn không còn đủ khả năng để dành ra những khoảng thời gian dài hay tận hưởng sự thảnh thơi của một đời sống nhân văn. Nó cũng mâu thuẫn với tính đa dạng của văn hóa hiện đại, vốn không bao giờ có thể biên soạn được một danh mục những điều cổ điển phù hợp với nhu cầu của chúng ta.
Những điều kiện này từng được hiện thực hóa trọn vẹn trong trường hợp của Leopardi, xét đến cuộc sống cô độc của ông trong ngôi nhà của cha mình (mà ông gọi là "paterno ostello"), sự tôn sùng của ông đối với cổ đại Hy Lạp và La Mã, cùng với thư viện đồ sộ được cha ông, bá tước Monaldo, cung cấp. Bên cạnh đó, ta cũng có thể kể thêm toàn bộ nền văn học Ý và văn học Pháp, ngoại trừ các tiểu thuyết và những thứ "mới ra" nói chung, tất cả đều bị đẩy sang lề để làm niềm an ủi cho những giờ phút nhàn rỗi của em gái ông, Paolina (ông từng viết cho cô: "Stendhal của em"). Ngay cả với niềm quan tâm mãnh liệt dành cho khoa học và lịch sử, Leopardi cũng thường sẵn sàng dựa vào các văn bản không hoàn toàn cập nhật, như thói quen của loài chim từ Buffon, những xác ướp của Frederik Ruysch từ Fontanelle, hay chuyến hải trình của Columbus từ Robertson.
Ngày nay, một nền giáo dục cổ điển như của Leopardi khi còn trẻ là điều không thể tưởng tượng được; trên hết, thư viện của bá tước Monaldo đã phát triển đến mức bùng nổ. Số lượng các tựa sách cũ đã bị cắt giảm đáng kể, trong khi những tựa sách mới lại tràn ngập trong tất cả các nền văn học và văn hóa hiện đại. Không còn cách nào khác ngoài việc mỗi chúng ta phải tự sáng tạo ra những thư viện lý tưởng của riêng mình về các tác phẩm cổ điển. Tôi sẽ nói rằng, một thư viện như vậy nên được tạo thành một nửa từ những cuốn sách mà chúng ta đã đọc và thực sự có ý nghĩa với chúng ta, và một nửa từ những cuốn sách chúng ta dự định sẽ đọc và tin rằng sẽ trở nên quan trọng—để chừa ra một phần kệ trống dành cho những bất ngờ và những khám phá ngẫu nhiên.
Tôi nhận ra rằng Leopardi là cái tên duy nhất tôi trích dẫn từ văn học Ý—một hệ quả của sự bùng nổ thư viện. Giờ đây, tôi nên viết lại toàn bộ bài viết để làm rõ rằng các tác phẩm cổ điển giúp chúng ta hiểu mình là ai và đang ở đâu, một mục đích mà để đạt được, việc so sánh người Ý với người nước ngoài và người nước ngoài với người Ý là điều không thể thiếu.
Sau đó, tôi lại phải viết lại bài một lần nữa để tránh ai đó tin rằng các tác phẩm cổ điển nên được đọc vì chúng "phục vụ bất kỳ mục đích nào." Lý do duy nhất mà ta có thể viện dẫn được là: đọc các tác phẩm cổ điển tốt hơn là không đọc chúng.
Và nếu ai đó phản đối rằng không đáng bỏ ra nhiều công sức đến vậy, tôi sẽ trích dẫn Cioran (người chưa phải là một tác giả cổ điển, nhưng rồi sẽ trở thành):
Khi họ đang chuẩn bị cốc thuốc độc, Socrates vẫn đang học một giai điệu trên cây sáo. "Điều đó có ích gì cho ông," họ hỏi, "khi biết giai điệu này trước khi chết?"
Why Read the Classics? By Italo Calvino, Translated by Patrick Creagh
The New York Review of Books Volume 33, Number 15 · October 9, 1986
Mưa Chiều chuyển ngữ
Một tác phẩm rất lớn tôi đang đọc, rồi sẽ thành cổ điển, đọc được nửa rồi mới nhớ ra là Milan Kundera cũng rất ngưỡng mộ cuốn sách này: