Q.D Leavis - Độc giả đại chúng (Phần 2)
Thực tế, điều này đồng nghĩa với việc một nhà văn trẻ có tiềm năng trở thành tiểu thuyết gia nghiêm túc, nhưng buộc phải kiếm sống bằng ngòi bút, lại rơi vào tình thế còn tồi tệ hơn...
Năm 2020, tôi từng có một bài viết mang tên Về một phê bình thù tạc, trên ZZZreview, trang đã đóng cửa. Bài viết đã nhắc đến câu chuyện của chính Q.D Leavis đã nói 90 năm trước ở thị trường sách nước Anh.
Cũng xem thêm:
Vào thời điểm này, khi ai ai cũng biết chữ và có nhu cầu đọc, truyền thông sách bắt đầu ra đời, trước hết từ sự hợp lực của nhóm các tạp chí, tờ báo, nhà phê bình và chính các nhà văn. Với hậu cảnh là những kho sách chất chồng và niềm vui doanh số, tất cả đều vào cuộc để định hướng người đọc bằng những phương pháp quảng cáo tinh vi ghép với phê bình văn học. Từ đó, thị trường bắt đầu có sách khó đọc, sách đáng đọc, sách dễ đọc, sách HE, sách SE… và ai ai cũng có thể yên tâm. Người ta không còn dám in tiểu thuyết khó bán nữa. Câu chuyện ở nước Anh xa xôi tận đầu thế kỷ 20 nhưng nghiệm đúng ở nước ta bây giờ. Tất nhiên tiêu chuẩn ngày xưa vẫn khác: những tiểu thuyết dễ dãi thời ấy đã thành văn học kinh điển của ngày nay, lạm phát văn chương. Ở những chương tiếp theo của nghiên cứu, độc giả sẽ còn thấy cách thức xoay sở của các nhà văn tên tuổi trên một thị trường biến động như vậy.
Chương dưới đây là tiếp theo chương 1 cuốn sách “Fiction and The Reading Public” năm 1939 đã đăng lần trước.
Q.D. Leavis - Những người trung gian
(Mưa Chiều chuyển ngữ theo bản tiếng Anh “Fiction and The Reading Public”, Chương 2, NXB Chato & Windus, London 1939)
Báo chí loan lên rằng rằng hơn 200.000.000 từ tiểu thuyết hư cấu mới thuộc thể loại IT được xuất bản mỗi tháng. Hầu hết trong số này là truyện ngắn đã in trên 900 tạp chí, vẫn có một dòng chảy ổn định của tiểu thuyết. Bán thơ ca thì lỗ, bán tiểu thuyết mới là nguồn thu chính.
Chương trước đã nói: việc đọc tiểu thuyết giờ đây khác nào một chứng nghiện, và thị trường sách phụ thuộc vào một công chúng mua sách theo thị hiếu mà họ đã hình thành từ việc đọc sách tại các thư viện cho mượn. Nghĩ sâu hơn thử xem: điều gì quyết định sự lựa chọn sách?
Đã bỏ ra sáu shilling đến nửa guinea để mua một cuốn tiểu thuyết, hay thậm chí sáu xu tại Woolworth’s hoặc quầy báo địa phương, chẳng ai mù quáng không hay biết về những gì họ sẽ tiếp nhận. Và đương nhiên, rất ít người vừa có thời gian vừa có khả năng tự mình chọn lọc từ cả kho tiểu thuyết xuất bản mỗi năm.
Vào thế kỷ XX, một công chúng gồm bốn mươi ba triệu người cần được tiếp cận, vì tất cả họ, dù ở mức độ khác nhau, đều biết chữ. Nhưng bộ phận dân số có mua hoặc mượn sách lại phân tán trên không gian rộng lớn và còn bị chia tách thêm bởi sự khác biệt về trình độ phát triển cũng như giáo dục, đến mức cần đến một tổ chức khổng lồ như nền báo chí hiện đại để đóng vai trò trung gian giữa tác giả và độc giả—thông qua các bài điểm sách, quảng cáo và chuyên mục văn học.
Chỉ riêng các tạp chí thuần túy về văn học cũng có thể được phân thành ba loại khác nhau dựa trên nội dung, phục vụ ba tầng lớp độc giả riêng biệt, và mỗi loại sẽ ít có giá trị đối với độc giả của hai loại còn lại.
The Criterion sẽ chỉ đánh giá những tiểu thuyết có chút tham vọng về giá trị văn học và có thể được phê bình theo các tiêu chuẩn nghiêm túc (ngay cả trong giới văn học, người ta vẫn thường gán cho nó cái nhãn “trí thức cao”); trong khi đó, The Times Literary Supplement, đại diện cho quan điểm học thuật an toàn, sẽ tóm tắt và bình luận về cốt truyện cũng như giá trị của bất kỳ tác phẩm nào do một tiểu thuyết gia có danh tiếng viết; còn một loạt các tuần báo giá rẻ khác thì dường như đáp ứng nhu cầu bàn tán về văn học và cung cấp thông tin về mức độ dễ đọc của sách. Ta có thể gọi những tầng bậc này là highbrow (hàn lâm), middlebrow (trung lưu) và lowbrow (bình dân).
Các ấn phẩm văn học lowbrow tiêu biểu có số lượng phát hành từ 30.000 đến 50.000 bản mỗi số, thậm chí có một tờ đạt 100.000 bản, trong khi đó London Mercury—thuộc tầng lớp tiếp theo—chỉ đạt 10.000 bản. Đối với The Criterion, không có số liệu chính xác, nhưng việc tờ này dao động giữa xuất bản theo quý và theo tháng cho thấy sự hỗ trợ không đủ vững chắc. The Adelphi, một tạp chí ít cứng nhắc hơn nhưng có lịch sử tương tự, trung bình bán được 4.200 bản mỗi tháng với giá một shilling từ năm 1923 đến 1927, nhưng khi chuyển sang phát hành theo quý với giá nửa crown từ năm 1927 đến 1930, số lượng giảm xuống còn 1.700 bản. Sau khi quay lại xuất bản hàng tháng với giá một shilling, nó chỉ bán được dưới 4.500 bản. The Calendar, một tạp chí ít nhất cũng thông minh và sắc bén như The Criterion nhưng sôi động hơn nhiều, đã ngừng xuất bản vào năm 1928 sau ba năm hoạt động vì thiếu sự hỗ trợ.
Một tiểu thuyết được lowbrow press đón nhận nồng nhiệt có thể bị middlebrow press đối xử hờ hững và bị highbrow press chế giễu hoặc thậm chí phớt lờ. Loại sách mà báo chí middlebrow hết lòng ca ngợi sẽ bị các nhà phê bình highbrow xem là nguy hại. Mỗi tầng lớp này có một nhóm độc giả riêng, tạo nên những cấp độ công chúng khác nhau.
Rõ ràng, ta đang có nhiều nhóm công chúng khác nhau nhưng chẳng ăn nhập gì với nhau, với gần hai mươi tạp chí văn học xuất bản hàng tuần, hàng tháng và hàng quý nhằm chuẩn hóa các mức độ thị hiếu khác nhau. Số lượng phát hành của chúng cho thấy một thiểu số có thị hiếu ngày càng thu hẹp—tạm coi là vậy.
Ngay cả số phát hành của các ấn phẩm thuộc hai cực đối lập cũng không thể hiện được sự khác biệt đáng kể trong một dân số 45 triệu người: chẳng hạn, tổng doanh số của các tạp chí lowbrow là khoảng 250.000 bản, trong khi highbrow chỉ có 4.000 bản. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con số sau chỉ thể hiện số lượng bản in thực tế (bởi hầu hết độc giả của The Criterion có lẽ là người đăng ký dài hạn), trong khi đó các tờ như The Listener, Everyman, John o’ London’s—tất cả đều phục vụ cùng một tầng lớp độc giả—được luân chuyển qua vô số tay trong các phòng đọc của thư viện công cộng. Ngoài ra, còn có một lượng lớn công chúng thụ động mua các nhật báo có số lượng phát hành lớn (từ một đến hai triệu bản mỗi tờ) và các tờ báo Chủ nhật (từ một đến ba triệu bản mỗi tờ).
Chính nhóm công chúng này đã khiến hầu hết các tờ báo lớn sẵn sàng chi trả để mời những nhân vật văn học nổi tiếng viết bài đánh giá hoặc điểm sách hàng tuần. Nhờ những bài viết này, họ có thể tự tin giới thiệu một số tiểu thuyết nhất định, và chính nhờ danh tiếng của nhà phê bình (dù là tiểu thuyết gia hay nhà báo) cũng như mức độ quảng bá mà những cuốn sách này trở nên nổi tiếng và được đọc rộng rãi. Các nhà sách có uy tín sẽ khẳng định rằng, chẳng hạn, chỉ cần ông Arnold Bennett đề cập đến một cuốn tiểu thuyết trong bài viết hàng tuần của mình là nó có thể bán hết ngay một ấn bản. Người kế nhiệm ông, Harold Nicolson, gần đây đã khiến cuốn The Way of All Flesh hết sạch trên thị trường chỉ bằng một lần nhắc đến trong chương trình phát thanh của ông trên BBC.
Quảng cáo tiểu thuyết ngày nay thường chỉ trích dẫn một nhận xét đơn giản từ những nhà phê bình này—những lời nhận định ngắn gọn, đầy quyền uy hơn là những bài phê bình thực sự—và các nhà xuất bản táo bạo thậm chí sẵn sàng tái bản sách với một dải băng hoặc bìa mới in kèm nhận xét đó. Tất cả điều này cho thấy rằng phần lớn công chúng đã có sẵn quyết định trước khi mua hoặc mượn sách, bởi ngay cả những người không đọc mục điểm sách trên các tờ báo hàng ngày và hàng tuần cũng khó mà không bị ảnh hưởng bởi quảng cáo sách.
Quảng cáo hiện đại sẽ được bàn đến sau, nhưng chỉ cần lưu ý rằng nó đã đạt đến mức độ hiệu quả đáng lo ngại.
Một sự tiêu chuẩn hóa thị hiếu thậm chí còn hiệu quả hơn được gợi ý qua hoạt động của The Book Society và The Book Guild (nay đã ngừng hoạt động). Tổ chức đầu tiên được thành lập theo mô hình Book-of-the-Month Club của Mỹ vào năm 1927, trong khi tổ chức sau ra đời vào đầu năm 1930. Mỗi tổ chức đều có một Ủy ban Tuyển chọn gồm năm tiểu thuyết gia và nhà báo (hầu hết trong số họ cũng đồng thời là các nhà phê bình sách cho báo và tạp chí).
Phương thức hoạt động của họ như sau:
"Các nhà xuất bản trên khắp đất nước gửi trước những tác phẩm quan trọng nhất của họ đến ủy ban tuyển chọn. Từ đó, ủy ban sẽ chọn ra một cuốn sách của tháng và lập thêm một danh sách bổ sung gồm các tác phẩm khác mà họ có thể hoàn toàn giới thiệu.
Vào sáng ngày sách được xuất bản, mỗi thành viên của The Book Society sẽ nhận được một bản in đầu tiên của cuốn sách mà ủy ban đã chọn. Kèm theo đó là một số Book Society News, trong đó có các bài đánh giá của các thành viên ủy ban về cả cuốn sách được chọn lẫn các cuốn sách trong danh sách bổ sung. Nếu thành viên nào cảm thấy cuốn sách được chọn không phù hợp với mình, họ có thể trả lại trong vòng năm ngày và sẽ nhận được một cuốn sách khác từ danh sách bổ sung theo lựa chọn của họ.
Trên thực tế, phần lớn các cuốn sách được chọn có khả năng là tiểu thuyết, bởi vì số lượng tiểu thuyết xuất bản luôn vượt xa các thể loại văn học khác...
Tham gia ngay và luôn The Book Society để khỏi bỏ lỡ sách hay bạn nhé."
The Book Society tuyên bố rằng với sự hỗ trợ của Ủy ban Tuyển chọn, sẽ không thể có chuyện bạn bỏ lỡ một cuốn sách thực sự đáng giá nào được xuất bản. Hơn nữa, họ khuyến khích quan điểm rằng khi tham gia The Book Society, độc giả có cảm giác như đang vĩnh viễn duy trì kết nối với thế giới văn học.
Danh sách các tác giả tham gia hội đồng tuyển chọn bao gồm những cái tên như G. B. Stern, A. P. Herbert, Rebecca West, Denis Mackail... cùng các tiểu thuyết có tính thương mại cao hoặc thời thượng như Hemingway, Osbert Sitwell.
Tính đến tháng 12 năm 1929, The Book Society đã có gần 7.000 thành viên và vẫn đang tiếp tục phát triển. Một người quan sát khách quan có thể rút ra hai thay đổi quan trọng trong văn hóa đọc:
Thứ nhất, bằng cách đặt thẩm quyền lên một loại thị hiếu trung bình, nó đã tạo ra một chuẩn mực middlebrow (trung lưu). Ví dụ, đối với The Book Society, việc xuất bản A Modern Comedy được coi là một sự kiện quan trọng trong lịch sử văn học Anh hiện đại.
Thứ hai, thị hiếu middlebrow đã được tổ chức thành một hệ thống. Với một lượng độc giả 7.000 người, không chỉ tuyên bố đại diện cho "sự khai sáng văn học", mà còn trở thành một yếu tố có sức ảnh hưởng lớn đối với các nhà xuất bản.
Không chỉ dừng lại ở con số 7.000, như ông Hugh Walpole (một thành viên của ủy ban tuyển chọn) đã nói:
"Không còn nghi ngờ gì nữa, những cuốn sách như The Edwardians, The Water Gypsies và Bengal Lancer đã bán được nhiều hơn đáng kể so với trường hợp nếu chúng không được chọn bởi The Book Society."
Một người quan sát khách quan cũng có thể nhận thấy một sự khó chịu nhất định trong tài liệu giải thích về The Book Guild. Mặc dù tổ chức này tuyên bố mục tiêu là phục vụ công chúng muốn tìm kiếm những cuốn sách "đọc được", ủy ban tuyển chọn của nó không thể đảm bảo điều đó mà không tự coi mình là một tiêu chuẩn phán xét văn học, đồng thời thể hiện thái độ thù địch với bất kỳ tiêu chuẩn nghiêm túc nào khác:
"Trong số hàng ngàn cuốn sách xuất bản mỗi năm, có từ 12.000 đến 14.000 đầu sách—vậy làm sao một người bình thường có thể chọn lọc được đâu là tác phẩm đáng đọc? Các nhà phê bình danh tiếng cố gắng định hướng cho công chúng, nhưng họ lại quá 'hàn lâm' và 'cao siêu' đến mức chỉ làm tăng thêm sự hoang mang và bối rối."
Khi tôi được giải thích về mục tiêu của The Book Guild, điều đó có vẻ quá lý tưởng—một tổ chức phục vụ những độc giả thông minh bình thường, chứ không phải giới "hàn lâm"; một tổ chức nhận ra rằng một cuốn sách vừa có thể có cốt truyện hấp dẫn, vừa có giá trị văn học; một tổ chức sẽ không đề cao một tác phẩm chỉ vì nó được một nhà phê bình uyên bác nào đó ca ngợi; một tổ chức có thể theo dõi được những tác phẩm xuất sắc nhất đương thời nhưng đồng thời cũng đảm bảo rằng có sách phù hợp cho tất cả mọi người, và đó sẽ là những cuốn hay nhất thuộc thể loại của chúng.
Một trong những mục tiêu chính của nó là tránh "thói khoa trương đáng chê trách"—như việc đề xuất một cuốn sách là thiên tài chỉ vì nó khó hiểu và được viết theo phong cách tối nghĩa, hoặc đề cao một tác phẩm nước ngoài chỉ vì nó là nước ngoài, và tên tác giả khó phát âm. (Ethel Mannin trong The Bookworm’s Turn, xuất bản bởi The Book Guild.)
Các nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám có một nhóm độc giả riêng, mặc dù họ không hướng đến các "quý cô trẻ tuổi tụ tập quanh quầy sách của thư viện Boots", và cũng không mấy thu hút "những kẻ ù lì chạy theo các nhà phê bình văn học hàn lâm." (George A. Birmingham trong The Book Guild Bulletin, tháng 7 năm 1930, giải thích về lý do The Book Guild chọn một tiểu thuyết trinh thám.)
Tình trạng kích động dễ nhận thấy ở đây—và sẽ còn xuất hiện ở nhiều đoạn khác trong chương này và chương sau—có lẽ là đặc điểm quan trọng nhất và cũng chính là điều định hình nên bối cảnh văn hóa đương thời. Liên quan đến vấn đề này, sự kêu gọi bản năng bầy đàn của các ấn phẩm từ cả hai hội sách nói trên là một điểm đáng lưu ý. Điều này cũng tương tự như cách các nhà xuất bản quảng cáo sách theo kiểu:
"Old Pybus" của Warwick Deeping – 75.000 bản trong sáu tuần
với giả định rằng một cuốn tiểu thuyết sẽ có khả năng là sách hay hơn nếu nó thu hút được một đám đông độc giả thay vì chỉ một nhóm thiểu số. Người chiến thắng trong cuộc thi của The Book Society với chủ đề "The Book Society có ý nghĩa gì đối với tôi" đã tuyên bố:
"Tôi coi The Book Society như một đàn cừu mà tôi có thể lẻn vào để trú ẩn, biết rằng lông của những con cừu khác cũng sẽ có cùng màu với tôi."
Cùng một sự lo lắng nhằm lấy lòng và xoa dịu "người đàn ông bình thường ngoài phố" cũng là một đặc điểm thiết yếu của nền báo chí hiện đại. Trong cuốn Journalism for Profit của Michael Joseph, có một chương đáng chú ý với tiêu đề "Làm thế nào để kiếm tiền từ nghề báo", do các nhà báo thành công đóng góp. Một đoạn tiêu biểu trong đó có đoạn viết:
"Sau khi đã làm xong điều đó, công việc tiếp theo là đứng về phía Công Chúng Vĩ Đại của Anh Quốc. Hãy giữ đôi lông mày của bạn không quá nhướng cao. Có thể bạn biết tất cả mọi thứ và vì thế cảm thấy vô cùng tiếc nuối cho Công Chúng Vĩ Đại vì họ không được hưởng những đặc quyền như bạn. Nhưng Công Chúng Vĩ Đại không phải lúc nào cũng ấn tượng với điều đó. Thường xuyên hơn, họ cảm thấy chán ngấy. Ngớ ngẩn và kiêu ngạo thật đấy, nhưng thực tế là vậy. Hãy làm họ vui. Hãy cổ vũ họ. Hãy trò chuyện với họ. Hơi quát nạt họ một chút. Chọc cười họ. Cười cùng họ. Tâm sự với họ. Thỉnh thoảng, hãy cho họ một câu chuyện cảm động lấy nước mắt—họ thích điều đó lắm. Nhưng, vì sự thành công của bạn, đừng bao giờ tỏ ra cao ngạo hay trí thức với họ."
Điều này đặc biệt quan trọng, bởi vì sức mạnh của nhà báo với tư cách là trung gian trong việc định hình thị hiếu đại chúng không thể bị đánh giá thấp. Như đã đề cập trước đó, các tạp chí và tờ báo chứa truyện hư cấu được bày bán phổ biến ở các quầy sách và tiệm tạp hóa, trong khi số lượng sách bán ra lại rất hạn chế do số nhà sách ít ỏi và nguồn cung nghèo nàn.
Để diễn đạt rõ ràng hơn sự khác biệt này, ta có thể so sánh: một tiểu thuyết cực kỳ ăn khách như Sorrell and Son, xuất bản năm 1928 với giá 7 shilling 6 xu và sau đó được in lại dưới dạng ấn bản giá rẻ, đã bán được 500.000 bản trong vòng hai năm trên toàn thế giới nói tiếng Anh (theo quảng cáo của nhà xuất bản). Trong khi đó, tạp chí Strand Magazine bán được 150.000 bản mỗi tháng (chưa tính thị trường Mỹ), Good Housekeeping đạt 125.400 bản, Nash’s 100.000 bản—đây đều là những tạp chí hàng tháng cao cấp có giá một shilling. Ở phân khúc thấp hơn, các tuần báo giá rẻ như Betty’s Paper có số lượng phát hành 175.000 bản, còn một số tờ khác có thể đạt 200.000 đến 300.000 bản mỗi tuần.
Một cái nhìn thoáng qua cũng cho thấy rằng loại truyện được xuất bản theo cách này đều cùng một kiểu: chúng được các biên tập viên lựa chọn cẩn thận theo chính sách "Cung cấp cho công chúng những gì họ muốn." Theo một quy trình dễ hình dung và có thể chứng minh, điều này đã trở thành việc cung cấp loại tiểu thuyết yêu cầu ít nỗ lực nhất để đọc, đồng thời mang lại cho độc giả một tâm trạng dễ chịu. Toàn bộ ngành xuất bản tiểu thuyết trên các tạp chí đã được tổ chức theo một nền tảng khoa học.
Để đạt được số lượng phát hành lớn nhất có thể (nhằm thu hút nhà quảng cáo), biên tập viên phải tìm cách đáp ứng thị hiếu phổ thông nhất, và ông ta không thể (hoặc nghĩ rằng mình không thể) chấp nhận xuất bản bất kỳ câu chuyện nào không tuân theo khuôn mẫu. Điều này được thừa nhận một cách thẳng thắn, chẳng hạn trong cuốn Short Story Writing for Profit. Ông Michael Joseph (một đại lý văn học, đồng thời là tác giả của The Commercial Side of Literature, The Magazine Story, Journalism for Profit, v.v.) đã in một chương có tiêu đề "Các biên tập viên muốn gì", trong đó chính các biên tập viên nêu lên yêu cầu của họ.
Những yêu cầu này lặp đi lặp lại với rất ít biến đổi:
"Những câu chuyện có tính kịch tính và vui tươi, với một mối tình lãng mạn mạnh mẽ và một bầu không khí dễ chịu."
"Tình yêu ư? Đương nhiên rồi. Lại còn phải lãng mạn. Nhưng đừng có u sầu quá."
"Các câu chuyện phải có sức hút mạnh mẽ đối với độc giả nữ, và một cái kết happy ending là điều bắt buộc."
Những câu chuyện buồn bã và đen tối không được chào đón, cũng như những tác phẩm đề cập quá trực diện đến các vấn đề về sếch. Những truyện rùng rợn, ma quái hoặc bạo lực cũng không được yêu cầu.
Để hiểu đầy đủ ý nghĩa của sự chuyên biệt hóa này, ta cần nhận ra rằng khi một biên tập viên viết “Không có gì nặng nề, u ám hay thần kinh bất ổn”, điều đó đồng nghĩa với việc ông ta đang ngầm lên án truyền thống sống động của tiểu thuyết (bởi những thuật ngữ này đã trở thành những tiêu chí được chấp nhận và được dùng với mục đích lịch sự). Để minh họa quan điểm này, ta có thể trích dẫn một cuốn cẩm nang của một nhà báo Mỹ, vừa thẳng thắn hơn lại vừa hoàn toàn thiếu tiêu chuẩn phê bình:
"Những nhà văn viết truyện ngắn có tham vọng xuất hiện trên các tạp chí uy tín cần nhớ rằng có một số chủ đề vốn đã không được hoan nghênh, bất kể giá trị nghệ thuật của câu chuyện ra sao. Rất ít tạp chí chấp nhận những gì u ám hoặc gây chán nản. Những nhà văn như Thomas Hardy, với cái nhìn ảm đạm và vô vọng về cuộc sống, không được chào đón trên các tạp chí đại chúng, dù kỹ thuật văn chương của họ có tinh tế đến đâu." (The Contemporary Short Story, Henry T. Baker)
Bởi vì chức năng của tạp chí ngày nay là cung cấp "thức ăn đọc nhanh cho những khoảnh khắc rảnh rỗi, trong lúc di chuyển hay sau giờ làm việc, lướt qua trong nền âm thanh của tiếng trò chuyện trong nhà hay sóng radio", nên điều quan trọng là truyện phải "ngắn gọn, sinh động", thu hút một cách thô sơ như một tấm áp phích quảng cáo (và cũng vì lý do tương tự), đồng thời dễ dàng để một tâm trí mệt mỏi có thể tiếp thu mà không cần cố gắng.
Thực tế, điều này đồng nghĩa với việc một nhà văn trẻ có tiềm năng trở thành tiểu thuyết gia nghiêm túc, nhưng buộc phải kiếm sống bằng ngòi bút, lại rơi vào tình thế còn tồi tệ hơn so với các tác giả như Trollope, Dickens, Thackeray. Nếu anh ta chịu khuất phục và rèn luyện bản thân để viết các truyện ngắn hoặc tiểu thuyết đăng nhiều kỳ theo thị hiếu của biên tập viên, thì anh ta coi như đã bị hủy hoại với nền văn học thực sự. Một biên tập viên người Mỹ đã bày tỏ điều này một cách rất ngây thơ:
"Trên thực tế, mỗi tạp chí là một gói sản phẩm, được đóng nhãn và niêm phong một cách có thẩm quyền bằng dấu phê duyệt của biên tập viên... Một tác giả trẻ thường bối rối khi nhận được một thư từ chối chỉ đơn giản nói rằng: 'Đây không phải là một câu chuyện phù hợp với Harper’s'. Điều đó không có nghĩa là câu chuyện đó không hay; nó chỉ đơn giản có nghĩa là, trong con mắt chuyên môn của biên tập viên, câu chuyện đó không phù hợp với loại hình tiểu thuyết mà tạp chí của ông ta đã thiết lập."
Việc trích dẫn một biên tập viên Mỹ trong trường hợp này không phải là không liên quan, vì (như đã đề cập trong Chương I), các tạp chí Mỹ có lượng phát hành lớn tại Anh, và mô hình lý tưởng của báo chí Mỹ đang dần chi phối nền báo chí định kỳ của Anh.
Mối liên hệ chặt chẽ giữa nền báo chí hai nước có thể thấy rõ qua Anglo-American Manuscript Service, một tổ chức chuyên phân phối truyện trên cả hai bờ Đại Tây Dương, trong đó có một hướng dẫn gửi đến các tác giả như sau:
“Như này bạn nhé,
Nếu bạn muốn trở thành một nhà văn thành công trên thị trường xuất bản Mỹ, nơi mà những tác phẩm thực sự xuất sắc được trả giá rất cao, hãy nhớ rằng tiểu thuyết Mỹ, nhìn chung, không bi quan, cũng không dung tục hay thiếu tôn trọng. Nó cũng không quá cấp tiến hay chống lại các giá trị Mỹ.
Hãy tránh những chủ đề u ám. Người Mỹ không muốn sự ảm đạm, mà muốn những gì làm sáng bừng cuộc sống. Mặt trời luôn phải tỏa sáng. Hãy viết về tình dục một cách tôn trọng, và tránh những khía cạnh phản cảm của nó. Đừng thô tục. Hãy nhớ rằng phần lớn các tạp chí Mỹ không tìm kiếm tư tưởng nghiêm túc.
Đừng thảo luận các vấn đề tôn giáo theo cách có thể xúc phạm tình cảm dân tộc, và tuyệt đối không đề cập đến thuyết tiến hóa. Những câu chuyện về tôn giáo nhấn mạnh đến ân huệ và phước lành dành cho nhân loại khổ đau luôn được hoan nghênh. Hãy để các vấn đề xã hội và chính trị tự giải quyết lấy chúng. Hãy nhớ rằng nước Mỹ là một quốc gia trẻ và thịnh vượng, và không có gì trên trái đất này sánh bằng nó."
Chúng tôi muốn giúp bạn bán bản thảo của mình. Hãy hợp tác với chúng tôi"
Ở đây, English có thể hoàn toàn đồng nghĩa với American, và ngoại trừ điều khoản về thuyết tiến hóa, tài liệu này đã nêu rõ những điều kiện mà mọi truyện ngắn muốn được xuất bản trên một tạp chí Anh đều phải đáp ứng. Chẳng hạn, cụm từ "không mang tính chống Mỹ" có thể dễ dàng được thay thế bằng quy định biên tập phổ biến ở bên này Đại Tây Dương:
"Các truyện có bối cảnh nước ngoài được hoan nghênh, miễn là trong đó có một nhân vật nam chính hoặc nữ chính là người Anh."
Cách mà các biên tập viên tạp chí Mỹ, khi tìm được một nhà văn tiềm năng, sẽ rèn luyện và ép buộc anh ta phục tùng theo hệ thống để đạt được sự giàu có đã được giải thích trong The Dance of the Machine. Trong khi đó, tại Anh, quá trình tương tự cũng đang diễn ra, dù ít trực tiếp hơn, và có vô số đại lý văn học đầy tham vọng sẵn sàng giảng dạy, như George G. Magnus, với khóa học How to Write Saleable Fiction (Cách viết tiểu thuyết có thể bán được).
Vào tháng 10 năm 1930, các tạp chí đồng loạt quảng cáo:
"Bạn có thể học cách viết những câu chuyện bán chạy."
"Mười hai bài giảng về kỹ thuật viết tiểu thuyết."
Bằng chứng về hiệu quả? Học viên của Mười hai bài giảng đã báo cáo rằng họ đã bán truyện cho Windsor, Pearson’s, Strand, Royal, Twenty Story, John o’ London’s—hầu như mọi tạp chí đáng giá ở Anh.
Mười hai bài giảng này do tổng biên tập của The Centurion biên soạn—một nhà báo hoàn toàn thành công, được đào tạo bởi Bob Davis, biên tập viên huyền thoại của tạp chí Mỹ.
"Viết sao cho người mù cũng đọc được!" Bob Davis yêu cầu.
"Hãy diễn đạt nó bằng hoa!"
"Nếu anh có thể bán truyện của mình cho một tạp chí hàn lâm cao cấp, thì cứ làm đi."
Mười hai bài giảng này đã được xuất bản thành một cuốn sách với giá một guinea. Đáng chú ý nhất là nội dung của bài giảng thứ mười hai:
"Những câu chuyện không bán được; Những câu chuyện mà biên tập viên không thích; Những câu chuyện có thể bán được; Lựa chọn thị trường," v.v.
Chỉ cần nhìn qua những chủ đề này cũng đủ để thấy thị trường tiểu thuyết đã bị thương mại hóa đến mức nào, và nhu cầu của nó đã trở nên cứng nhắc, rập khuôn ra sao. Việc áp dụng các quy tắc của nền báo chí khoa học vào ngành tạp chí đã đóng chặt cánh cửa đối với thiên tài, tài năng thực sự và sự độc đáo. Thay vào đó, nó chỉ tạo ra một kiểu năng lực trung bình, nhợt nhạt—đủ để duy trì thói quen đọc của công chúng nhưng không vượt ra khỏi khuôn khổ.
Xét riêng về khía cạnh văn học, đây là một vấn đề nghiêm trọng. Nếu một nhà văn viết những truyện có giá trị nằm ngoài quan niệm của giới báo chí về "Công chúng muốn gì", anh ta sẽ không thể xuất bản chúng. Không một tạp chí nào trong số 900 tạp chí đáng giá mà Mr. MacNichol đề cập đến sẵn sàng tiếp nhận những truyện như vậy, và các nhà xuất bản cũng không muốn in tuyển tập truyện ngắn (mà vì lý do nào đó, họ cho rằng không có lãi).
Một nhà văn hư cấu có tiềm năng sẽ phải nghiên cứu các tạp chí, đọc vài cuốn cẩm nang, hoặc tốt nhất là theo học một khóa học hàm thụ tại Regent Institute hoặc London School of Journalism, rồi rèn luyện bản thân để viết những truyện đúng chuẩn mực đã đặt ra. Nếu may mắn, anh ta có thể tìm ra một công thức thành công—P. G. Wodehouse có lẽ là ví dụ điển hình nhất của quá trình này—và đạt đến danh hiệu tác giả bestseller.
Không có bất kỳ tạp chí nào giống như The Yellow Book từng tồn tại để giúp một tài năng mới khởi nghiệp, cũng không có nơi nào dành cho một tiểu thuyết gia nghiêm túc kiếm sống bằng cách viết tiểu thuyết nhiều kỳ (như các nhà văn thời Victoria đầu và giữa thế kỷ) hay truyện ngắn (như các nhà văn thời Victoria cuối và Edwardian). Không còn English Illustrated Magazine để xuất bản một Henry James nào nữa. (Thực tế, Nash’s, khi muốn thu hút những cái tên lớn, đã đăng phần cuối của thiên sử thi Forsyte dưới dạng truyện nhiều kỳ, nhưng điều đó không hoàn toàn giống nhau.)
Tạp chí hiện đại, trong khi trở nên dễ đọc hơn bao giờ hết đối với những người lao động thành thị mệt mỏi, đã đạt được điều này bằng cách từ bỏ bất kỳ tham vọng nào trở thành văn học thực sự. Nhưng nó không chỉ dừng lại ở việc giải trí và xoa dịu độc giả—mà còn thách thức công khai những tiêu chuẩn và hoài bão khác.
Và bằng cách tập cho công chúng đọc chỉ những loại truyện nhất định, với một góc nhìn hạn chế, nó đã làm hỏng thị hiếu của họ đối với những tiểu thuyết nghiêm túc hơn được xuất bản dưới dạng sách.